Ưu
đãi người có công với cách mạng là một chính sách đặc biệt của Đảng,
Nhà nước nhằm tôn vinh, tri ân, đãi ngộ đối với những cống hiến của
người có công với cách mạng. Ngày 12/01/2017, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 43/QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về cải
cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công,
theo đó Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao chủ trì xây dựng
Đề án cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên
chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp, đề án
cải cách chính sách bảo hiểm xã hội và Đề án cải cách chính sách ưu đãi
người có công. Tuy nhiên tại Chỉ thị số 14/CT-TW ngày 19/7/2017 của Ban
Bí thư đã đề cập tương đối toàn diện những nội dung đổi mới chính sách
ưu đãi người có công trong tình hình mới nên Ban chỉ đạo Trung ương đồng
ý để Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục thực hiện 2 đề án về
cải cách chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội.
Do
đó, Bộ xin được đánh giá kết quả thực hiện chính sách ưu đãi người có
công và những đổi mới trong quá trình tổ chức thực hiện trong giai đoạn
tiếp theo như sau:
1. Đánh giá việc triển khai và thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng
1.1. Công tác xây dựng thể chế
Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày
16/7/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có
công với cách mạng. Chính phủ đã ban hành 5 Nghị định, Thủ tướng Chính
phủ ban hành 04 Quyết định và 06 Chỉ thị. Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội đã ban hành theo thẩm quyền và phối hợp với các Bộ, ngành ban
hành 10 Thông tư, Thông tư liên tịch hướng dẫn trình tự thủ tục xác nhận
và thực hiện chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Các Bộ,
ngành như: Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Xây
dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ,…theo chức năng và thẩm quyền
của mình, đã ban hành các Thông tư hướng dẫn về trình tự thủ tục, chế độ
quản lý nhà nước về xác nhận và thực hiện ưu đãi liên quan đến người có
công với cách mạng (có Phụ lục văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh kèm
theo).
1.2. Việc giải quyết hồ sơ tồn đọng
Đến
nay cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công với cách
mạng; trong đó, số người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng gần
1,4 triệu người.
Trước
thực trạng công tác xác nhận người có công với cách mạng do thiếu giấy
tờ, thiếu hồ sơ nên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu
trình cơ quan có thẩm quyền tổ chức triển khai quy trình xử lý tồn đọng
xác nhận người có công với cách mạng. Được sự đồng ý của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội khóa XIV về công tác xác nhận người có công với cách mạng,
Bộ đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017
và Nghị quyết số 40/NQ-CP ngày 10/5/2017 của Chính phủ, trong đó giao Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các địa phương tiếp tục
thực hiện tốt chính sách đối với người có công, giải quyết các hồ sơ xác
nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh còn
tồn đọng tại các địa phương theo trình tự, thủ tục, hồ sơ cụ thể do Bộ
trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành, bảo đảm công khai,
minh bạch, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng chính sách để
trục lợi.
Đây
là công việc rất hệ trọng, có ý nghĩa sâu sắc và mang tính đột phá
trong việc xem xét giải quyết hồ sơ tồn đọng đối với người có công, vì
vậy, ngày 20/3/2017, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã
ban hành Quyết định số 408/QĐ-LĐTBXH về quy trình giải quyết hồ sơ người
có công tồn đọng. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với
các Bộ, ngành và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhất là Bộ Quốc phòng, Bộ
Công an và các địa phương, đặc biệt là ý kiến của các bậc lão thành cách
mạng tập trung xem xét giải quyết hồ sơ tồn đọng tại các địa phương.
Tính từ năm 2017, cả nước có 5.900 hồ sơ tồn đọng. Kết quả, Bộ đã giải
quyết 5.900 hồ sơ tồn đọng cụ thể như sau: Trình Thủ tướng Chính phủ
công nhận và cấp bằng Tổ quốc ghi công đối với 2.204 liệt sĩ, giải quyết
cho 2500 trường hợp được hưởng chế độ thương, người hưởng chính sách
như thương binh. Những hồ sơ không đủ điều kiện đã được kết luận và giải
thích cho các đối tượng một cách thấu tình, đạt lý, đến nay, Bộ không
có đơn thư khiếu nại về số hồ sơ này.
1.3. Công tác chăm lo đời sống người có công
a) Ưu đãi về nhà ở
Thực
hiện Nghị quyết số 494/NQ-UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ngày
26/4/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg
về hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở, với tổng số 393.707 hộ
cần được hỗ trợ (trong đó: xây dựng nhà mới cho 184.695 hộ, sửa chữa nhà
cho 209.012 hộ), tổng kinh phí cần hỗ trợ là 10.653.422 triệu đồng.
Bộ
Xây dựng đã ban hành Thông tư số 09/2013/TT-BXD ngày 01/7/2013 hướng
dẫn thực hiện Quyết định này, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số
98/2013/TT-BTC ngày 24/7/2013 hướng dẫn việc quản lý, cấp phát và
thanh, quyết toán vốn hỗ trợ nhà ở. Theo báo cáo của Bộ Xây dựng,
tính đến năm 2019 đã có 315.174/393.707 hộ đã được hỗ trợ nhà ở (chiếm
tỷ lệ 80%).
Tính
đến hết tháng 2/2020, theo báo cáo của các địa phương, sau khi rà soát,
có khoảng 33.302 hộ gia đình người có công không còn nằm trong Đề án do
một số người có công đã chuyển đi nơi khác hoặc được các cơ quan, tổ
chức, cá nhân tài trợ...; đã hoàn thành việc hỗ trợ cho 328.235 hộ gia
đình (155.688 hộ xây mới, 172.547 hộ sữa chữa); còn lại 32.170 hộ chưa
thực hiện, phấn đấu đến hết năm 2020 cơ bản hoàn thành việc hỗ trợ nhà ở
đối với người có công với cách mạng; không còn hộ người có công thuộc
diện hộ nghèo.
b) Vận động Quỹ Đền ơn đáp nghĩa
Thực
hiện Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, phong trào “Đền ơn
đáp nghĩa” đã được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Bộ, ngành, đoàn thể
từ Trung ương đến địa phương, các tổ chức và cộng đồng xã hội tích cực
hưởng ứng, trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc; được sự nhiệt
tình, hưởng ứng đóng góp của cán bộ, công nhân viên chức, người lao động
ở các cơ quan, đơn vị, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân
dân, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm và xã hội. Tổng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa
cả nước đã bổ sung thêm được gần 5.200 tỷ đồng, trong đó cấp Trung ương
là gần 19 tỷ đồng, cấp địa phương là gần 5.100 tỷ đồng.
Cả
nước đã chi gần 12.683 tỷ đồng để hỗ trợ xây mới 85.145 căn nhà tình
nghĩa, sửa chữa 70.431 căn nhà tình nghĩa, tặng 124.029 sổ tiết kiệm
tình nghĩa trị giá gần 981 tỷ đồng; cả nước có 4.962 Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng được các đơn vị nhận phụng dưỡng suốt đời. Việc quản lý, sử dụng
Quỹ được thực hiện theo Nghị định số 45/2006/NĐ-CP ngày 28/4/2006 của
Chính phủ ban hành Điều lệ quản lý và sử dụng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa đảm
bảo chặt chẽ, đúng mục đích, đúng đối tượng, công khai, minh bạch.
c) Trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công
Chế
độ trợ cấp ưu đãi đối với người có công trong những năm qua được thực
hiện đúng theo quy định của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng
và bám sát lộ trình cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu
đãi người có công. Hàng năm, ngân sách Nhà nước dành sự ưu tiên đặc
biệt, bố trí nguồn kinh phí đảm bảo chi thực hiện chế độ ưu đãi người có
công với cách mạng và thân nhân của người có công.
Từ
năm 2004 đến nay, chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đã qua 10 lần điều
chỉnh, từng bước khắc phục những hạn chế về mức, về nguyên tắc và phương
thức điều chỉnh độc lập với chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, phù hợp
với điều kiện của ngân sách nhà nước, góp phần từng bước cải thiện nâng
cao đời sống của người có công. Mức chuẩn để xác định mức trợ cấp ưu
đãi người có công là 1.515.000 đồng vào năm 2018 (cao hơn mức lương cơ
sở là 1.390.000 đồngcủa cán bộ, công chức), năm 2019 là 1.624.000 đồng
(mức lương cơ sở 1.490.000 đồng).
Hiện
nay, số người có công đang hưởng trợ cấp hàng tháng là gần 1,4 triệu
người và khoảng 300.000 thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp tiền
tuất hàng tháng với tổng kinh phí khoảng 30.000 tỷ đồng/năm.
d) Điều dưỡng phục hồi sức khỏe
Từ
ngày 01/01/2013, chế độ điều dưỡng luân phiên đối với người có công đã
được tăng lên (giảm từ 5 năm sang 02 năm một lần) nhằm đáp ứng nhu cầu
chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của người có công với cách mạng. Đến
nay, cả nước có 65 cơ sở nuôi dưỡng, điều dưỡng và đón tiếp người có
công với cách mạng đáp ứng cơ bản yêu cầu chăm sóc, điều dưỡng người có
công nhất là đối với thương binh nặng.
đ) Giải quyết việc làm
Bên
cạnh trợ cấp một lần và thường xuyên, người có công với cách mạng và
thân nhân còn được ưu đãi trên nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó
có ưu đãi giải quyết việc làm. Thực hiện Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày
28/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đào tạo nghề, giải quyết
việc làm cho con liệt sĩ, con thương binh nặng, con bệnh binh nặng, theo
báo cáo của các địa phương, đến nay, đã có khoảng 49.000 người có công
và con của họ được hỗ trợ đào tạo nghề ở trình độ sơ cấp, dưới 3 tháng,
trong đó có trên 24.000 người được đào tạo nghề nông nghiệp và 25.000
người được đào tạo nghề phi nông nghiệp. Bộ Quốc phòng đã tiếp nhận trên
2.700 người là con của thương binh, con bệnh binh nặng vào làm việc tại
các doanh nghiệp quốc phòng, trong đó có 338 cháu là con của thương
binh, con bệnh binh nặng đang điều dưỡng tại các trung tâm điều dưỡng
thương binh.
e) Cấp thẻ Bảo hiểm y tế
Hiện,
có trên 800.000 đối tượng người có công được Nhà nước mua bảo hiểm y tế
(ngoài thân nhân người có công đã được Nhà nước mua bảo hiểm y tế theo
quy định của Luật Bảo hiểm y tế) với kinh phí khoảng gần 400 tỷ
đồng/năm. Đồng thời, Pháp lệnh cũng bổ sung về trách nhiệm của cơ quan y
tế trong việc hướng dẫn chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ, bảo hiểm y tế đối
với người có công với cách mạng và thân nhân của họ.
Chế
độ bảo hiểm y tế đối với người có công được quan tâm với phương châm
người có công được ưu tiên cao nhất, được chăm sóc đầy đủ, kịp thời.
Theo đó, người có công được thanh toán bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi
phí khám chữa bệnh còn thân nhân người có công được thanh toán 95%.
Việc thực hiện chế độ bảo hiểm y tế đối với người có công cơ bản được
triển khai khá tốt, đáp ứng được nguyện vọng của đối tượng, hầu như
không phát sinh những thắc mắc về hình thức và mức hỗ trợ khi đối tượng
đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế.
g) Ưu đãi giáo dục - đào tạo
Chế
độ ưu đãi trong giáo dục - đào tạo đối với con người có công trong
những năm qua đã có sự quan tâm thiết thực, triển khai có hiệu quả. Tổng
số người có công và thân nhân đang hưởng trợ cấp ưu đãi giáo dục, tính
đến tháng 6/2020 là 77.151 người.
1.4. Công tác quản lý các công trình ghi công liệt sĩ và quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính hài cốt liệt sĩ
Đến
nay, cả nước có trên 3.200 nghĩa trang liệt sĩ và trên 3.000 các công
trình ghi công liệt sĩ. Hàng năm, bên cạnh việc đầu tư ngân sách địa
phương và xã hội hóa, Nhà nước đều bố trí một phần kinh phí để tu bổ,
nâng cấp mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ, các công trình ghi công liệt
sĩ.
Hiện,
còn khoảng gần 200.000 hài cốt liệt sĩ chưa được quy tập và gần 300.000
hài cốt liệt sĩ đã được quy tập nhưng chưa đầy đủ thông tin. Ngày
14/01/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 150/QĐ-TTg phê
duyệt Đề án xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin giao
cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực và Quyết
định số 1237/QĐ-TTg ngày 27/7/2013 phê duyệt Đề án tìm kiếm, quy tập
hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và các năm tiếp theo giao cho Bộ
Quốc phòng là cơ quan thường trực. Năm 2019, Chính phủ đã nhập hai Ban
chỉ đạo này thành Ban chỉ đạo tìm kiếm, quy tập và xác định danh tính
hài cốt liệt sĩ (gọi tắt là Ban Chỉ đạo 515).
Tính
đến hết tháng 12/2019, thực hiện Đề án xác định danh tính hài cốt liệt
sĩ còn thiếu thông tin, Bộ đã triển khai thực hiện và kết quả đạt như
sau:
Bằng
phương pháp thực chứng: Thông qua thông tin về đồng đội, đơn vị, thân
nhân và thông tin về quy tập,… đã xác định được trên 2.614 danh tính
liệt sĩ.
Bằng
phương pháp giám định ADN: Các cơ sở giám định ADN thuộc Bộ Quốc phòng,
Bộ Công an, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và các tổ chức
giám định phục vụ công tác xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn
thiếu thông tin được tập trung đầu tư, nâng cấp, nâng cao năng lực thực
hiện với đội ngũ được đào tạo căn bản. Đã tiếp nhận 20.731 mẫu hài cốt
liệt sĩ, tiến hành phân tích được 12.844 mẫu hài cốt liệt sĩ (trong đó
có kết quả ADN 7.995 mẫu) và trả kết quả cho 1.299 trường hợp (đạt 16%
so với mục tiêu). Những trường hợp đã phân tích ADN đều được lưu lại kết
quả để phục vụ công tác xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu
thông tin.
2. Những tồn tại, hạn chế
Thứ
nhất, quy định về một số chế độ ưu đãi đối với người có công với cách
mạng còn ở mức thấp, chưa được điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của một bộ phận gia đình
người có công với cách mạng, ví dụ như: Chế độ trợ cấp thờ cúng liệt sỹ
với mức 500.000 đồng/năm, trợ cấp thâm niên người hoạt động kháng chiến
với mức 120.000 đồng/1 thâm niên…
Thứ
hai, một số chế độ ưu đãi đang thực hiện đối với người có công với cách
mạng chưa thật sự đảm bảo hài hoà giữa các đối tượng như: chưa có chế
độ bảo hiểm y tế đối với thân nhân của người hoạt động cách mạng trước
ngày 01/01/1945, người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến ngày
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 còn sống (trong khi thân nhân của thương
binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học
suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên đã được hưởng ưu đãi), chế độ
trợ cấp một lần đối với thân nhân của Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng
Lực lượng vũ trang Nhân dân, Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng
chiến; người có công giúp đỡ cách mạng đã từ trần nhưng chưa được hưởng
chế độ ưu đãi...
Thứ
ba, một số chế độ ưu đãi không còn hợp lý như: thân nhân có từ 4 liệt
sĩ trở lên cũng chỉ được hưởng tối đa 3 định suất, ngược lại có trường
hợp một người có công với cách mạng cùng một lúc được hưởng nhiều định
suất (trợ cấp người phục vụ).
Thứ
tư, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung chế độ bảo hiểm y tế cho vợ hoặc chồng
liệt sĩ tái giá mà nuôi dưỡng con liệt sĩ đến tuổi trưởng thành hoặc
chăm sóc bố mẹ liệt sĩ.
Thứ
sáu, chính sách miễn giảm tiền thuế sử dụng đất cho người hoạt động
kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học thì không phân biệt tỷ lệ suy giảm
khả năng lao động và đều được miễn giảm 90% tiền sử dụng đất, trong khi
thương binh có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 41 - 60% thì mức
miễn giảm tiền sử dụng đất lại thấp hơn.
Thứ
sáu, việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin cũng
như việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý Nhà nước
đối với người có công với cách mạng tuy có nhiều cố gắng triển khai và
đã đạt được một số kết quả nhất định; song, nhìn chung tiến độ vẫn còn
chậm, chưa gắn kết giữa công tác tìm kiếm, quy tập với công tác xác định
danh tính hài cốt liệt sĩ, nguồn lực và điều kiện để triển khai các
nhiệm vụ này trên thực tế chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thứ bảy, công tác vận động quỹ chưa được tiến hành thường xuyên, chỉ tập trung vào dịp kỷ niệm ngày Thương binh - Liệt sĩ.
Thứ tám, nguồn lực tham gia đóng góp không nhiều.
Thứ
chín, chính sách hỗ trợ về nhà ở còn một số khó khăn, vướng mắc như:
một số địa phương triển khai chậm, còn lúng túng hoặc nể nang trong việc
xét chọn đối tượng hỗ trợ; thời gian thực hiện hỗ trợ kéo dài, việc cấp
kinh phí còn chậm; định mức kinh phí cho việc xây dựng mới hoặc sửa
chữa nhà chưa tính đến yếu tố vùng, miền và ban hành từ năm 2013 đến nay
không còn phù hợp, trượt giá cũng làm ảnh hưởng không ít đến tiến độ
triển khai thực hiện.
3. Định hướng thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng gia đoạn 2021 - 2030
3.1. Quan điểm thực hiện chính sách ưu đãi người có công
Thực
hiện chính sách ưu đãi người có công giai đoạn này phải đảm bảo các
tiêu chí minh bạch, khách quan trong xác nhận người có công và thân nhân
người có công, đảm bảo cơ bản ban hành đầy đủ các chính sách ưu đãi cần
phải có đối với người có công với mức ưu đãi phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội và khả năng cân đối, huy động nguồn lực của đất
nước.
Thực
hiện chính sách ưu đãi người có công là nhiệm vụ thường xuyên, quan
trọng của cả hệ thống chính trị và là trách nhiệm của toàn xã hội nhằm
đãi ngộ, tôn vinh, chăm sóc người có công; đảm bảo người có công có mức
sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên cùng địa bàn
nơi cư trú; đảm bảo hỗ trợ một phần thu nhập cho thân nhân người có công
để họ không rơi vào diện nghèo đói theo chuẩn nghèo qui định của Chính
phủ.
3.2. Mục tiêu
Phấn
đấu 100% gia đình người có công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao
hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú.
Giải quyết những vấn đề vướng mắc về điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục, hồ sơ xác nhận người có công với cách mạng.
Để
hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2020, 100% gia đình người có công với
cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng
đồng dân cư nơi cư trú thì một trong những giải pháp quan trọng và cơ
bản là triển khai đồng bộ hệ thống chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước về công tác người có công với cách mạng.
Chính
sách ưu đãi người có công được thực hiện trên cơ sở các quy định văn
bản quy phạm pháp luật, trong đó có Pháp lệnh Ưu đãi người có công với
cách mạng. Sau hơn 8 năm thực hiện, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với
cách mạng năm 2012 đã bộc lộ những bất cập, hạn chế cần phải điều chỉnh,
sửa đổi cho phù hợp: Các quy định của Pháp lệnh còn chưa đầy đủ để điều
chỉnh thực tiễn sinh động của công tác ưu đãi người có công với cách
mạng, nội dung một số văn bản quy định về ưu đãi người có công với cách
mạng còn chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn với nhau về cùng một lĩnh vực ưu
đãi, ví dụ như ưu đãi giáo dục được quy định bởi 2 văn bản: Ngành Giáo
dục và Đào tạo thực hiện chế độ miễn giảm học phí, ngành Lao động -
Thương binh và Xã hội vẫn thực hiện chế độ trợ cấp ưu đãi giáo dục - đào
tạo hàng tháng và trợ cấp mỗi năm một lần. Về hình thức văn bản hướng
dẫn hiện nay cũng có những vướng mắc, khó khăn do quy định của Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật mới cho phép quy định thủ tục hành chính
trong Thông tư, dẫn đến không đảm bảo được tính chủ động, kịp thời
trong việc ban hành văn bản hướng dẫn. Ngoài ra, một số quy định trong
Pháp lệnh chưa quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành như: Điều kiện,
tiêu chuẩn, quy chế, chuyên môn, kỹ thuật bảo đảm việc xác nhận, giám
định sức khỏe đối với người hoạt động kháng chiến hoặc con đẻ bị nhiễm
chất độc hóa học; chế độ ưu tiên, ưu đãi trong sản xuất, kinh doanh công
nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; xử lý vi phạm ở lĩnh vực
người có công.
Vì
vậy, để thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng được quy định tại Chỉ
thị số 14-CT/TW ngày 19/7/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp
tục tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác người có công với
cách mạng với mục tiêu "phấn đấu đến năm 2020, 100% gia đình người có
công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cộng
đồng dân cư nơi cư trú" đồng thời giải quyết những vấn đề vướng mắc về
điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục, hồ sơ xác nhận người có công
với cách mạng, Bộ đã trình Chính phủ để trình Quốc hội dự án Pháp lệnh
ưu đãi người có công với cách mạng (sửa đổi).
3.3. Những điểm mới trong Pháp lệnh Ưu đãi nguời có công với cách mạng (sửa đổi)
Việc
xây dựng dự án Pháp lệnh (sửa đổi) này sẽ được tiến hành sửa đổi toàn
diện để thay thế Pháp lệnh hiện hành nhằm tháo gỡ các vấn đề còn vướng
mắc, bất cập trong quá trình thực hiện Pháp lệnh, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn; tiếp tục thể chế hóa đầy đủ, kịp thời quan điểm, chủ trương
của Đảng, đồng thời tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ, minh bạch, thống nhất,
đảm bảo công bằng, hợp lý, tạo sự đồng thuận cao của xã hội trong quá
trình tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công và thân
nhân của họ; huy động sự tham gia đóng góp tích cực hơn nữa của xã hội,
của các tổ chức, cá nhân để cùng với nhà nước chăm lo tốt đời sống vật
chất, tinh thần cho người có công với cách mạng và thân nhân của người
có công; xác định cơ chế, chính sách khuyến khích, động viên người có
công với cách mạng và gia đình vươn lên phát triển kinh tế, gìn giữ và
phát huy truyền thống cách mạng tại nơi cư trú, tham gia xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, trong đó, bảo đảm công khai, minh bạch trong công nhận và
tôn vinh người có công với cách mạng, với đất nước; bảo đảm nguyên tắc
cống hiến và công bằng trong thực hiện chế độ ưu đãi người có công; kế
thừa và nâng tầm hiệu lực pháp lý các quy định của pháp luật ưu đãi
người có công hiện hành vẫn còn phù hợp; bảo đảm tính khả thi trong việc
giải quyết hồ sơ xác định đối tượng người có công với cách mạng phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội của từng giai đoạn lịch sử cách mạng;
kết hợp việc bố trí tăng ngân sách nhà nước với đẩy mạnh huy động, đa
dạng hóa các nguồn lực xã hội đối với công tác người có công với cách
mạng; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác chăm sóc người
có công, cụ thể các vấn đề chính cần được sửa đổi, bổ sung.
a) Bổ sung chế độ đối với vợ hoặc chồng Liệt sĩ đã tái giá
Pháp
lệnh hiện hành quy định thân nhân của liệt sĩ là: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ
hoặc chồng, con đẻ, con nuôi, người có công nuôi dưỡng liệt sĩ; vợ hoặc
chồng liệt sĩ đã lấy chồng hoặc vợ khác thì không phải là thân nhân liệt
sĩ và không được hưởng các chế độ ưu đãi như thân nhân liệt sĩ.
Tuy
nhiên, để ghi nhận tình cảm, trách nhiệm của người vợ/chồng tuy đã có
chồng/vợ khác nhưng vẫn làm tốt việc chăm sóc gia đình liệt sĩ, nuôi con
liệt sĩ, Chính phủ đã bổ sung trong Pháp lệnh (sửa đổi) chính sách trợ
cấp tuất hàng tháng (bằng một lần mức chuẩn) đối với trường hợp có biên
bản của gia đình hoặc họ tộc liệt sĩ khẳng định đã nuôi con liệt sĩ đến
tuổi trưởng thành hoặc chăm sóc bố mẹ liệt sĩ khi còn sống, được Ủy ban
Nhân dân cấp xã xác nhận và bổ sung chế độ bảo hiểm y tế đối với vợ hoặc
chồng liệt sĩ đã tái giá.
b) Công nhận Liệt sĩ thời bình
Điểm
e Khoản 1 Điều 11 của Pháp lệnh hiện hành quy định “Dũng cảm cứu người,
cứu tài sản của Nhà nước và Nhân dân” là một trường hợp được xem xét
công nhận liệt sĩ. Thực tiễn thực hiện quy định này gặp rất nhiều khó
khăn do tiêu chí xác định “dũng cảm cứu người, cứu tài sản” không rõ,
dẫn đến nhiều trường hợp chết khi cứu người bị đuối nước hoặc tham gia
phòng, chống bão lũ, làm nhiệm vụ bị tai nạn,… được công nhận liệt sĩ
làm dư luận xã hội không đồng tình.
Dự
thảo Pháp lệnh (sửa đổi) đã điều chỉnh nội dung này tại Điều 14 của dự
thảo Pháp lệnh theo hướng chỉ xem xét đối với những trường hợp chết do
có hành động đặc biệt dũng cảm thực hiện các công việc đặc biệt nguy
hiểm, cấp bách, để cứu người, cứu tài sản của Nhà nước, Nhân dân; là
những tấm gương, có ý nghĩa tôn vinh, giáo dục và lan tỏa rộng rãi trong
xã hội.Những trường hợp khác hướng chuyển sang tôn vinh, khen thưởng
Huân chương, Huy chương và thực hiện trợ cấp mai táng hoặc hưởng chính
sách tử tuất theo Luật Bảo hiểm xã hội.
c) Về xem xét đối tượng bệnh binh thời bình
Pháp
lệnh hiện hành quy định: “Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc
bệnh làm suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên khi xuất ngũ” và “là
quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao động từ
41% đến 60% đã được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền công nhận trước ngày
31/12/1994”.
Dự thảo Pháp lệnh (sửa đổi) quy định như sau:
Đối với các trường hợp là bệnh binh đang hưởng theo Pháp lệnh hiện hành thì tiếp tục được hưởng theo quy định.
Không
tiếp tục công nhận bệnh binh mới là đối tượng người có công; trừ các
trường hợp làm nhiệm vụ đặc biệt nguy hiểm, cấp bách làm suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên. Bệnh binh mới từ khi Pháp lệnh sửa đổi có
hiệu lực, hưởng chế độ theo quy định của pháp luật về Bảo hiểm xã hội.
Nguồn:
Báo cáo chuyên đề của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổng kết
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020
của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ