VĂN HÓA-XÃ HỘI
BẢN DỊCH NGHĨA VĂN BIA THẦN TÍCH ĐẶT TẠI ĐÌNH THÔN TRUNG SƠN XÃ TÁI SƠN HUYỆN TỨ KỲ TỈNH HẢI DƯƠNG
12/12/2022 04:05:03

BẢN DỊCH NGHĨA VĂN BIA THẦN TÍCH

ĐẶT TẠI ĐÌNH THÔN TRUNG SƠN XÃ TÁI SƠN

HUYỆN TỨ KỲ TỈNH HẢI DƯƠNG

Người dịch: Nguyễn Đức Quả

Cán bộ Viện nghiên cứu Hán Nôm

BIA GHI THẦN TÍCH

Sao chép từ bản ngọc phả cổ - bản chính của bộ lễ quốc triều, chi cấn thuộc Thủy, bộ thứ 2 bẩy vị thần. Vị đại vương thứ nhất có công lao lớn được phong thần tước, khai quốc công thần triều Lý, họ Việt Thường.

Xưa nước Việt ta thời Nam mở trận các vị Thánh tổ gây dựng cơ đồ hơn 2000 năm, đến các vua Hùng dựng nước, đặt tên nước (quốc hiệu) là tổ của Bách Việt vậy. Kịp đến các thời cháu chắt của các vua Hùng cùng với các triều Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương (Trung Quốc) tất cả gồm 349 năm, sông núi nước Nam bị nhập bào quận huyện của họ. Trải đến các đời Đinh, Lê, Lý, Trần bốn họ, đều là những vị vua sáng tài giỏi nối nhau trị nước. Truyền đến đời vua Lý Thái Tông, là vua nước ta. Về văn thì tu chỉnh võ bị, về đức thi hành chính sách khoan hòa. Thuở ấy người đời khen là thịnh trị. Thời Lý Thái Tông kết hôn cùng Hoàng Hậu Trinh Minh rất tôn sùng Đạo Phật. Trong 8 năm sinh được 8 người con trai gọi là Hoàng lang tử. Vua cùng Hoàng hậu nuôi dưỡng dậy dỗ, ngày qua tháng lại chẳng mấy chốc đã đến tuổi 14. Tất cả đều là những chàng trai dũng cảm, trung hiếu, cung kính cẩn trọng, có tài giúp vua như những phụ tá giỏi, các vị Hoàng tử thứ nhất, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ 8 đều có sự tích ở Ngọc phả riêng khác. Hoàng tử thứ nhất sinh giờ Mão, ngày 13 tháng 8. Hoàng tử thứ hai sinh giờ Dần ngày 15 tháng 8. Còn các Hoàng tử khác đều ghi chép sự tích các cuốn phả khác.

Thời gian này, nhà vua (Lý Thái Tông) muốn đánh dẹp Chiêm Thành bèn sai ba Hoàng tử đi tuần tra địa giới các Châu. Ba hoàng tử vâng mệnh đi tuần tra các địa phương trong nước. Vua đặt tên cho Hoàng tử thứ nhất là Quang Lang Hoàng thái tử. Hoàng tử thứ hai là Vinh Lang Hoàng Tử, Hoàng tử thứ ba là Ánh Lang Hoàng tử. Bèn phong tước cho cả ba là Uy Minh Lang tử, ban hiệu Tri bản châu quân dân sự. Năm ấy tức năm đầu niên hiệu Càn Phù (1039), ba vị Hoàng tử đều lên xe ngựa đi tuần phòng thiên hạ. Tự nhiên đi đến địa giới trang Ngọc Tái huyện Tứ Kỳ phủ hạ Hồng trấn Hải Dương, ba vị bèn dựng ba đồn sở. Vị Hoàng tử thứ hai lập đồn sở đóng quân tại chùa Cảnh, thuộc khu Trung. Còn hai vị Hoàng tử thứ nhất và thứ ba đóng quân ở khu khác có sự tích chép riêng. Đóng quân ở đó được hơn một năm, thiên hạ thái bình, trong nước vô sự.

Năm ấy, bỗng có giặc Ai Lao khởi binh. Biên giới có thư gấp báo tin về. Vua hay tin rất lo lắng lập tức sai ba Hoàng tử đi đánh dẹp. Thời gian ấy Hoàng tử thứ hai đang đóng đồn tại ngôi chùa của bản trang, nhận được lệnh truyền của vua cha nhưng chưa chịu đem quân đi đánh. Hoàng tử cậy mình là người có tài thao lược xem giặc Chiêm Thành đánh dễ như trở bàn tay có ý coi thường. Hoàng tử mới lệnh truyền cho khu Thượng và khu Trung trong trang ấp, mỗi họ trong một khu chọn lấy một người anh tài, khỏe mạnh dũng cảm, Hoàng tử phong cho làm lực sĩ gia thần, chọn thêm trong của trang được hơn 200 người đi theo hai viên gia thần cùng quân của Hoàng tử đi đánh giặc. Khi ấy trong trang ấp có hai người của hai họ là Nguyễn Viết Hùng tại khu Trung và Lê Viết Trương ở khu Thượng. Hoàng tử làm tờ biểu tâu lên vua cha( Lý Thái Tông). Hoàng tử phong tước cho hai người, truyền chia lập đồn trại làm nơi trú quân. Ngài Hùng đóng quân ở địa phận khu Trung, tục gọi là xứ Đồn Me. Ngài Trương đóng quân tại địa phận khu Thượng, tục gọi là xứ Đồn Rao. Hoàng đóng đòn tại bản Chùa. Hoàng tử lệnh cho hai gia thần đem theo quân dân nhằm nơi đóng quân của giặc tiến đánh. Hai vị gia thần cùng đem quân tới, đem hết sức lực tài trí không sợ hy sinh đánh nhau với quân giặc. Hai bên đánh nhau một trận, quân giặc thua to. hai gia thần 1 mình đánh nhau với tướng giặc và chém đầu tướng giặc, quân giặc tự tan chạy. Khi ấy Hoàng tử thứ hai cũng tham dự trận đánh. Hai gia thần trở về đồn sở ở bản Trang tâu với Hoàng tử. Hoàng tử lập tức dâng biểu tâu lên vua xin phong cho hai gia thần là Nội đao hầu. Lại xin cho hai khu thuộc bản trang sau này được là đất Thang mộc. Vua ưng cho lại gia phong cho Hoàng tử chức Đại đô úy, thống quản các Châu, trấn và các việc quân dân ở đó, ban thưởng một trăm cân vàng. Hoàng tử bái nhận chức tước, mở đại tiệc khao thưởng quân dân. Hoàng tử phong cho hai vị gia thần làm Nội đao hầu, thưởng hai trăm lạng vàng, lại ban thưởng thêm cho các cụ gìa là hai trăm quan tiền, mời tất cả dân trong Trang cùng đến dự yến tiệc. Hoàng tử nói với các cụ phụ lão và nhân dân rằng: “Anh em ta vốn là do theo lệnh Trời giáng sinh xuống làm Hoàng tử nhà Lý, nay được nhận chức đóng đồn ở đất của dân, vậy sau này dân thôn đây sẽ là thần tử cùng ở với ta”.

Năm, sáu năm sau, hôm ấy vào ban dên, Hoàng tử nằm mơ thấy trong chùa có một người mặc áo đội mũ sáng chói, tay cầm bút rồng đứng trước mặt Hoàng tứ bảo rằng: “ Ta là quan sứ giả của Thiên đình trấn giữ ngôi chùa này, nên xuống báo cho ngươi biết”, lại đọc bài thơ rằng:

“ Hoàng thiên đã định số

Sinh làm tướng tử làm thần

Ngọc Tái là đất linh thiêng

Cho ngươi làm thần của dân ở đây”

Đọc xong đưa bút điểm một chấm vào trán Hoàng tử rồi hét lên một tiếng rất lớn. Hoàng tử tỉnh dậy thấy vùng trên trán đau dữ dội, một lát sau phát bệnh rồi hóa mất. Ngày mất là 21 tháng 11 năm Bính Thìn. Nhân dân làm tờ biểu tâu lên vua. Vua vô cùng thương tiếc sai quan trong triều về cử hành quốc tang chôn cất. Quan triều đình về đến nơi thấy nhân dân đã làm lễ tang chôn cất rồi bèn truyền lệnh dựng một ngôi miếu là Chính lăng và hai ngôi miếu phụng thờ, nơi ấy tục gọi là Mả vua, là khu đất cấm. Lại ban cấp cho nhân dân hai khu tám trăm quan tiền để làm tiền thờ cúng, chuẩn cho nhân dân trong trang được miễn trừ các việc như binh, lương, lao dịch trong 18 năm. Mãn lệ khen phong là bậc Thượng đẳng phúc thần, làm tấm gương, trường tồn cùng quốc gia và mãi mãi thịnh vượng.

Thứ nhất: Phong là Hoàng tự, Hoàng lang, thông minh, cương nghị, chính trực, quả đoán, hiển ứng Hoàng tử Đại vương thượng đẳng phúc thần. Chuẩn y cho khu Thượng, khu Trung của trang Ngọc Tái huyện Tứ kỳ, phủ Hạ Hồng làm ấp “ Hộ nhi thang mộc” phụng thờ thần ở miếu thiêng chính sở.

Lại nói về sau truyền đến các đời nhà Trần, nhà Lê khai sáng cơ đồ thần đều tỏ rõ sự linh ứng, cầu gió cầu mưa đều được như nguyện, cho nên các triều đều khen phong mỹ tự, thường được quốc lễ vào ngày Đinh trong hai kỳ xuân và thu.

Các ngày sinh ngày mất cùng các chữ kiêng húy kê khai dưới đây:

Ngày sinh nhật 15 tháng 8, lễ phẩm dùng lợn sắc vàng, xôi màu đỏ, rượu ngọt cùng ca xướng ba ngày.

Ngày hóa 21 tháng 11, lễ phẩm dùng các thức oản, hoa quả, vàng mã làm lễ tế. Trước ngày lễ chính một ngày lễ phẩm dùng một mâm bánh chay, cùng các thứ hoa quả vàng mã đem đến bản chùa làm mật lễ xong rồi đem về miếu chính làm lễ tế. Sau lễ chính một ngày lễ phẩm dùng trà, xôi màu đỏ làm lễ tại miếu chính. Về sau lại sắm sửa áo mũ nghiêm trang, lễ phẩm dùng hai con lợn cùng xôi rượu đem đến miếu thờ Hoàng tử anh thứ nhất làm lễ xong đem về miếu chính làm lễ. Chọn trong trang hai cụ phụ lão đại diện cho hai họ đến miếu thờ Hoàng tử em thứ ba làm mật lễ xong rước về miếu chính làm lễ. Sau đó lại sắm hai mâm xôi gà làm lễ tạ, ca xướng ba ngày.

Lễ khánh hạ mùng 2 tháng 10, lễ phẩm dùng thịt trâu, bò xôi rượu cùng các thức. Chọn trong Trang lấy hai người đến lăng mộ Gia thần làm mật lễ, rồi rước về miếu chính làm tế lễ, ca xướng 7 ngày

Chữ kiêng húy là chữ “Vinh” cấm không dùng, khi làm lễ không được mặc áo đội mũ đỏ - nói chung là cấm dùng các trang phục màu đỏ.

Ngôi miếu dựng tại địa phận trang ấp nằm ở Bắc Tây Bắc nhằm hướng nam Đông Nam, trước mặt sau lưng đều có án chầu, bên trái tựa rồng, bên phải tựa hổ. Mạch dẫn từ phương Bắc đến, hai bên có cờ trống trấn giữ, ngựa chầu voi phục đúng là thế đất linh thiêng.

Ngày 17 tháng giêng giỗ ông Nguyễn Hùng, mộ táng tại địa phận khu Trung, tục gọi là Mả ông tướng ở xứ Đồng Tháp.

Ngày 14 tháng 7 giỗ ông Lê Trương, mộ táng tại địa giới khu Thượng tục gọi là Mả ông Trương ở xứ Đồng Rèo. Còn dân cư ở theo một dải dài tựa như dây cây dưa bên cạnh có con lạch dẫn nước, một phía theo mạch núi, một phía theo mạch nước, trước kia dân cư ở chung, sau mới chia làm hai khu đất đều phát vượng về dân số và tiền của.

Ngày tốt mùa xuân niên hiệu Hồng Phúc năm đầu (1572) Quản giám bách thần, tri điện Hùng Lĩnh thiếu khanh thần Nguyễn Hiền sao lại từ bản chính trước đây.

Nguyên bản thần phải trải qua thời gian hai trăm năm bị thất lạc, vào tháng 2 năm Canh Thân thôn Trung xã Ngọc Tái nghe biết ở xã Bình Liêu huyện Bạch Hạc có một hòm tàng trữ (Thần Phả) bèn đến đó xin được đem về. Đến tháng 9 năm Tân Dậu các quan viên chức sắc và các cụ cao tuổi trong thôn họp bàn thống nhất dựng bia ghi khắc thần tích để truyền lại lâu dài.

Ngày tốt mùa thu tháng 9 niên hiệu Tự Đức 14 Triều Nguyễn (1861)

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ XÃ TÁI SƠN - HUYỆN TỨ KỲ

Trưởng Ban Biên tập: Ông Phạm Đức Sơn - Phó Chủ tịch UBND xã

Địa chỉ: xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương

Điện thoại: 0969722892

Email: daitruyenthanhxataison@gmail.com

Số lượt truy cập
Đang truy cập: 0
Hôm nay: 0
Tháng này: 0
Tất cả: 0